Tôi vẫn thường cảm thấy Giết con
chim nhại và Bắt trẻ đồng xanh
có một sự liên quan nào đó, dù thực tế hiển nhiên đó là hai tác phẩm hoàn toàn
độc lập. Dù vậy, cảm giác về sự liên quan ấy mãi theo đuổi tôi. Sau khá nhiều lần
bỏ qua việc đọc chúng, cuối cùng tôi mới chạm tay vào hai tác phẩm thuộc hàng
kinh điển này. Tôi thấy thời điểm mình đọc đã trở nên khá muộn. Hẳn bạn đọc nên
tiếp cận với hai cuốn sách này từ sớm, đặc biệt với Giết con chim nhại – trẻ em có thể tìm thấy trong đó những bài học
giáo dục ý nghĩa, trong khi Bắt trẻ đồng
xanh dường như phù hợp với tuổi vị thành niên nổi loạn (nhưng cho những ai
muốn tìm lại chút hương vị dù gần gũi hay xa lạ với mình trong những năm tháng
hoa niên có lẽ cũng không phải sự chọn lựa tồi, đặc biệt nếu bạn đang chán mớ đời
nhiều giả dối). Tôi mua hai cuốn sách trong cùng thời điểm. Nhưng quá trình đọc
thì khác nhau.
Tôi đọc Giết con chim nhại
khá nhanh, trong khi với Bắt trẻ đồng
xanh thì ngược lại. Nếu Giết con
chim nhại giống như một bé gái trong sáng, quả cảm, giàu tính chính nghĩa
làm cho người ta yêu mến từ phút đầu đến phút cuối thì Bắt trẻ đồng xanh mang đến ấn tượng ban đầu của một cậu con trai bốc
đồng hư hỏng. Bạn khó mà yêu mến chàng trai ấy ngay được. Sự yêu mến chỉ đến nếu
bạn dành cho chàng sự nhẫn nại (bởi bạn là độc giả kiên nhẫn, tò mò hay vì những
lý do ấm ớ nhưng thiết thực như tiếc tiền mua sách hay vì muốn đọc mà chưa có
tiền mua sách mới). Phải mấy tháng trôi qua tôi mới trở lại với Bắt trẻ đồng xanh. Khi đọc trọn vẹn thì
sự khó chịu ban đầu nguôi ngoai. Tôi nhận ra đằng sau sự ngổ ngáo hư hỏng của cậu
trai kia là một tâm hồn lương thiện trong sáng. Và tôi bắt đầu thấy cậu ấy dễ
thương…
Tôi vẫn mang theo cảm giác về sự liên quan giữa hai tác phẩm, cho đến
bây giờ, sau khi đã đọc xong hết cả hai. Đó cũng là lý do khi muốn khái quát đôi
dòng cảm nhận, tôi không chọn viết riêng từng tác phẩm. Dù vậy tôi lại không
tránh khỏi cảm giác lúng túng khi xếp đặt chúng cạnh nhau, như thể tôi đang làm
phép so sánh (tôi hoàn toàn không có ý định này). Nhưng có vẻ như đó lại chính
là điều tôi đang làm. Phút chốc tôi cảm thấy mình trở nên vụng về và kém tinh tế
làm sao…
Với tôi, Giết con chim nhại
là một tác phẩm thật hoàn chỉnh. Dường như không thể tìm thấy một chi tiết thừa
hay thiếu nào trong câu chuyện này. Tôi cho rằng khi chọn góc độ viết từ một
nhân vật (ở đây là cô bé Scout mới có 8 tuổi đầu) việc tránh được sự thừa hoặc
thiếu trong từng chi tiết được thuật lại bởi cái nhìn chủ quan của một người là
điều không hề dễ dàng. Nhưng thuyết phục và quý giá hơn, mặc dù cho thấy sự chỉn
chu, chuẩn mực từ phong cách kể chuyện đến lối hành văn và về tổng thể nội
dung, Giết con chim nhại không tạo
cho tôi cảm giác đang đọc một kịch bản được xếp đặt khéo léo đến nỗi làm nảy
sinh trong tôi sự hoài nghi dễ có nguy cơ giết chết lòng mến yêu chân thực dành
cho tác phẩm, dẫu rằng khi đọc tiểu thuyết, sự hư cấu hay lý tưởng hóa là điều
bạn đã thỏa hiệp ngay từ đầu với tác giả. Tôi hơi nghĩ đến cuốn Người đua diều mà tôi đã đọc dạo trước,
một tiểu thuyết mà sự hoàn chỉnh trong nội dung cũng là điều tôi nhận thấy sau
khi đọc xong. Tuy nhiên, bằng cách nào đó, dù vẫn dành nhiều thiện cảm cho cuốn
sách ấy, cảm giác về sự tính toán, sắp xếp khéo léo và có chủ đích lại ít nhiều
để lại trong lòng tôi một vết rạn. Như khi đối diện với một con người mà bạn
không hoàn toàn chắc chắn về sự chân thành của họ, dù dường như họ hoàn hảo dường
ấy, bạn thấy giữa mình và họ mãi tồn tại một hố sâu ngăn cách…
Bắt trẻ đồng xanh mang đến
cho tôi cảm xúc hoàn toàn trái ngược. Lối hành văn thô mộc (nếu không nói là thật
khó tưởng tượng một tác phẩm được đưa vào chương trình giảng dạy của Mỹ lại ngồn
ngộn những từ ngữ mang hơi hướng chửi thề nhiều đến thế) đem đến cho tôi cảm
xúc khó chịu đã đành, còn khiến tôi phải tự hỏi rốt cuộc nhà văn không biết
cách diễn đạt hay đã (vô tình hay cố ý) chọn lối diễn đạt có phần lủng củng ấy
để phù hợp với nhân vật chính của mình nhất – một cậu trai mới lớn vừa bị đuổi
học ở trường, hay chửi thề, có thể đánh nhau, uống rượu, tập tành gọi gái làng
chơi và thường xuyên cảm thấy xung quanh mình chỉ toàn những thứ bộ tịch, giả dối?
Một chàng trai như thế, như tôi nói, người bình thường khó mà có thiện cảm với
cậu ngay được. Không kể, với những cảm xúc mơ hồ có phần lộn xộn của mình, câu
chuyện và những con người qua giọng kể của cậu cũng nằm trong một tổng thể rối
rắm và thật khó để vẽ nên chân dung điển hình của một ai. Tuy nhiên, bất luận
Holden Caulfield mang trong mình những khuyết điểm thuộc về hành vi của mình lớn
tới cỡ nào, sự thật là cậu vẫn sở hữu những tình cảm ấm áp dành cho những người
xung quanh, đặc biệt với mấy đứa trẻ. Và sự chán chường của cậu, cái tâm trạng
bất cần, lạc lõng trước những bộ tịch, giả tạo của cuộc sống xét ở khía cạnh
nào đó lại là chi tiết thật cảm động. Ai trong chúng ta cũng có thể từng rơi
vào trạng thái tâm lý như Holden Caulfield. Và có thể chúng ta cũng từng có cái
mơ ước như của cậu, được đứng trên “một mỏm đá điên khùng nào đó” để bắt những
đứa trẻ trước khi chúng rơi xuống (trong khoảnh khắc nào đó của cuộc sống, có
phải chính Holden và kể cả chúng ta cũng như những đứa con nít chạy trên đồng
lúa mạch to, ở rất gần mỏm đá mà không hề coi chừng, cũng mong có ai đó tình
nguyện ở đó để bắt lấy mình?!!)…
Có lẽ không cần phải nói về tư tưởng và tính giáo dục của hai tác phẩm
này, điều mà hẳn đã được nhiệt thành nhắc đến qua nhiều thập kỷ. Duy có điều, đến
lúc này trong suy nghĩ của tôi thì nếu ý nghĩa nhân văn của Giết con chim nhại tương đối dễ hiểu và
dễ tiếp cận thì tư tưởng của Bắt trẻ đồng
xanh dường như mang nhiều tính ẩn dụ đến nỗi tính phê phán và ý nghĩa giáo
dục của nó không phải là điều có thể nói ngay một cách chắc chắn và rõ ràng. Một
người bạn của tôi tình cờ cũng đọc Bắt
trẻ đồng xanh (và đang bỏ dở), khi trao đổi với nhau một chút, có nói với
tôi rằng dù vốn ưa thích kiểu văn phong tục, sâu và cay nhưng cô không thấy thoải
mái khi đọc cuốn này, cô “không thể cười và cũng không thấy nhức
nhối” khi đọc, rằng “chửi cũng chỉ là hình như cho đã miệng thôi chứ không phản
ánh gì nhiều”… Tôi có thiển nghĩ là (một cách hơi mỉa mai và đau xót), sở dĩ cảm
nhận của cô như vậy là vì cô đã đọc khá nhiều những tấn trò đời ở Việt Nam nên
đương nhiên câu chuyện của cậu nhóc Holden ở xứ Mỹ thập niên 50 – 60 của thế kỷ
trước chẳng thể “xi nhê” gì với cô…
Đặt Giết con
chim nhại và Bắt trẻ đồng xanh ở
cạnh nhau, bởi cảm giác sự liên quan giữa chúng mãi theo đuổi tôi, tôi nghĩ rằng
đến cuối cùng điều này không phải hoàn toàn vô lý. Sự trùng hợp đáng lưu ý nhất là hai tác phẩm này đều gắn với hai tác giả được đánh giá là bí ẩn và
khó hiểu nhất trong văn chương Mỹ. Sau thành công của tác phẩm duy nhất (hay gần
như duy nhất), cả Harper Lee và J.D.Salinger đều chọn lối sống ẩn dật.
Những gì thuộc về họ, đời sống riêng tư, lý do họ ngừng viết hay dù là những lý
giải về chính tác phẩm đã đưa tên tuổi mình vào lịch sử văn học, tất cả dường
như nằm sau cánh cửa nhà khóa kín. Là một độc giả, thật ra tôi ít có cái ham muốn
đọc hết tác phẩm này đến tác phẩm nọ của cùng một nhà văn, bởi tôi ít nhiều
ngán ngại việc nắm bắt tư tưởng tác giả theo kiểu từng thời kỳ hay phải thông
qua việc đọc một cách có hệ thống. Một nhà văn với duy nhất một tác phẩm do vậy
ở góc độ nào cũng có sức cuốn hút với tôi. Và nếu hỏi tôi (tôi phải tự giả định
thế thôi vì tôi biết sẽ không có ai hỏi tôi cả), nếu đã đặt hai cuốn sách này cạnh
nhau thì tôi thích cuốn nào hơn, tôi sẽ mỉm cười giả lả và nói vu vơ là: tôi
thích cô bé Scout hơn nhưng tôi nhớ cậu nhóc Holden…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét