
Nhớ lại lần đầu tiên mua sách online, chuyện
cách đây nhiều năm, là mua ở nhà sách S. Trong số sách nhận được có một cuốn
thiếu hẳn nhiều trang. Khi gọi điện phản hồi, nhận ra là họ sớm đã biết cái lỗi
này (hẳn ngay từ quá trình in ấn đã mắc phải sai sót ở một số cuốn) rồi hứa hẹn
sẽ đổi trả. Nhưng sau im ru. Từ đó, tôi tìm mua sách ở nơi khác, nơi cũng gắn
bó mua đến bây giờ. Ờ, tôi chỉ “vĩnh biệt” cái gì đó trong một kiểu trường hợp
tương tự như thế mà thôi.
2. 14 truyện viết rải rác trong những năm từ
1986 đến 2004. Truyện đầu tiên trong cuốn sách là Tướng về hưu viết năm 1986.
Tôi chắc mình nghe đến cụm từ “Tướng về
hưu” trước khi biết đến cái tên Nguyễn Huy Thiệp. Có lẽ một buổi học văn nào đó
trong những năm tháng học trò xa xưa, một cô giáo dạy văn đã thoáng nhắc qua, về
cái tình tiết “cô con dâu làm ở bệnh viện phụ sản, công việc là nạo phá thai và
hàng ngày các rau thai bỏ đi cô mang về cho chó, lợn ăn”. Trong ký ức lờ mờ,
tình tiết này hẳn tôi cũng đã từng đọc thấy trên báo, kiểu người ta phân tích về
nhân vật – cái sự vô cảm đó, cái hiện thực cuộc sống với những giá trị đảo lộn
khiến ông tướng về hưu thất kinh, sống dần chết, đại loại vậy. Tướng về hưu
cũng được dựng thành phim và hẳn điện ảnh cũng góp phần thêm vào sự nổi tiếng của
nó.
Tên tuổi nhà văn Nguyễn Huy Thiệp thì mãi
sau này tôi mới biết, khi ông không còn sáng tác (một cách chính thức) nữa. Ông
bán tác quyền cho NXB Trẻ, chiều chiều đưa cháu nội đi học, cà phê hay dạo phố
- đó là những gì tôi nhớ được, từ một bài báo, về tuổi già của nhà văn. Với một
ngòi bút hiện thực, lạnh lùng và tỉnh táo ngần ấy, kể cũng khó hình dung về sự
“tận hưởng tuổi già nhàn nhã” ấy, khi mà cuộc sống dĩ nhiên vẫn cần nơi Nguyễn
Huy Thiệp khả năng “xông pha trận mạc” như “con ngựa bất kham” năm nào. Nhưng
có lẽ ai cũng già, và khi già thì người ta hay nghĩ là thời của mình đã qua.
Cũng có thể có lý do khác. Song tôi cứ nghĩ biết đâu, rất lâu sau này, hậu nhân
lại tìm thấy trong những di cảo của ông ấy, những thứ chưa được xuất bản khi
còn sống, viết trong chính những năm tuyên bố “nghỉ hưu” ấy. Biết đâu đấy!
3. 14 truyện ngắn, những lát cắt hiện thực,
tôi nghĩ nó thậm chí không xa rời so với hiện thực đời sống bây giờ, dù là những
câu chuyện viết từ thời kì đổi mới. Sức sống của văn chương có lẽ là như vậy,
dù viết trong những năm tháng nào, một tác phẩm giá trị vẫn phù hợp với lớp người
đọc ở những thời đại sau. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, càng đọc nhiều
sách, người ta càng nhận thức được rằng cuộc đời hóa ra trước sau không khác là
bao, bất kể những biến thiên thời đại. Những thứ xấu xa hôm xưa thì đến hôm nay
vẫn tồn tại, tuy diện mạo có thể khác, hoặc trơ tráo hơn hoặc khéo léo tài tình
hơn. Những điều tốt đẹp thì hẳn nhiên, vẫn có đó, và người ta truy tầm nó trên
ngòi bút của mình, có thể tuyệt vọng song cái hướng về nó thì như một sứ mệnh
có tính như nhất thủy chung, nghĩa là, thời đại nào thì cái đẹp cũng ít, cũng
hiếm, cũng chỉ tồn tại mạnh mẽ nhất ở cõi hy vọng. Tôi nghĩ thế giới truyện của
Nguyễn Huy Thiệp gần với thế giới của Dostoevsky trong cuốn tiểu thuyết tôi đọc
ngay trước đó là Anh em nhà Caramazov và rất có lẽ Nguyễn Huy Thiệp chịu sự ảnh
hưởng nhất định của nhà văn Nga vĩ đại này.
4. Viết về những bệnh trạng xã hội và khiến
người đọc có thể sửng sốt vì những nhân vật ở đâu đó giữa lằn ranh “trí thức”
và “lưu manh”, giữa sự trơ tráo và sự tử tế nhiều khi không thể phân biệt nổi,
ngòi bút của Nguyễn Huy Thiệp thẳng đuột, tuy giàu triết lý song
không nặng nề; đau đớn đấy nhưng hầu như không chìm trong u buồn, giọng văn có
lúc giễu nhại với những tình tiết tuy dung tục nhưng rất hài hước.
Tôi nghĩ những truyện ngắn Tướng về hưu,
Không có vua, Những người thợ xẻ, Những bài học nông thôn là những truyện ngắn
đặc sắc cho thấy hết cái gai góc, không khoan nhượng của “hiện tượng” Nguyễn
Huy Thiệp. Ông lột trần cuộc đời, phanh phui tâm hồn con người đến tận đáy. Thế
giới của ông không có hạnh phúc hay bất hạnh, mà chỉ có sự thật, kiểu sự thật như
chính cái mệnh đề khắc nghiệt “cuộc đời vốn thế” và người ta thấy thảng thốt mà
không thể làm gì. Trong truyện Tội ác và trừng phạt, Nguyễn Huy Thiệp có trích
làm đề từ một câu nói của Dostoevsky, rằng “Cái Đẹp cứu rỗi thế giới” nhưng tôi
thấy hoài nghi ý niệm này. Các nhà văn, các nhà nghệ thuật làm tốt cái gọi là
phản ánh cuộc đời, song để trả lời câu hỏi: cái gì sẽ cứu rỗi con người khỏi sự
xấu xa, suy đồi thì không. Theo thời gian cho thấy, cái xấu vẫn đầy rẫy đó thôi...
5. Trong tuyển truyện, dường như chỉ có Con gái thủy
thần và Như sương như khói bay là hai truyện nặng về tình cảm. Trong đó, ấn tượng về Con
gái thủy thần chẳng hiểu sao gợi lên cho tôi một chút cảm giác “sến súa” mặc dù
đọc một nhà văn hiện thực thì cảm giác này hoàn toàn không thích hợp. Có lẽ khi
chạm đến tình yêu, cái kiểu rời bỏ gia đình, rời bỏ quê hương, lang thang qua
các vùng miền và dù bị cuộc đời hủy diệt thì vẫn thao thiết đi tìm “con gái thủy
thần” – hình bóng người yêu hay hẳn có thể là một ẩn dụ nào đó về cái đẹp hoặc
lý tưởng sống, thì người ta không thể nào không cảm thấy cái chất “sến” ấy, kể
cả khi ta có là “sư phụ của sến” đi chăng nữa. Cũng có thể vì khi đặt trong
toàn tập truyện, Con gái thủy thần đã được viết bằng một văn phong khá yếu mềm,
như kiểu nỗi lòng của những cậu trai đang yêu tuyệt vọng.
Như sương như khói bay là một dạng tình cảm
trực tiếp không mang tính ẩn dụ, gần như tình yêu nam nữ song không có sự thừa nhận vì thuộc về một trong những cấm kị thường thấy của người đời:
một tình cảm vượt khung khổ tuổi tác, gần như có thể xem nhau là ông cháu. Nếu ở
Márquez, tình cảm kiểu này (và còn kinh khủng hơn thế về khoảng cách tuổi tác)
vẫn có một con đường để đi thì với một câu chuyện ở Việt Nam, nhân vật của
chúng ta, ông Trụ chỉ có thể chọn cách rời xa cô bé San với một mớ triết lý tự
an ủi rằng sự hợp tan ở trên đời là lẽ thường. Và điểm nhìn của Nguyễn Huy Thiệp
về phía ông Trụ dừng lại ở những triết lý trống rỗng, khuôn sáo đó; trong khi để cô bé
San, cô bé con trong xóm núi không biết triết lý, ôm ấp tình yêu của mình và cứ thế, phỏng đoán rằng với một tình yêu như thế, nó sẽ bước dần đến cái chết. Như sương như khói bay như tên gọi của mình,
tuy không phải là truyện ngắn đặc sắc, song là truyện ngắn gợi một nỗi đau rất
riêng trong tuyển truyện: nỗi đau đánh mất cái đẹp.
8. Nếu hỏi tôi, nhớ cái gì sau khi đọc, tôi
lại thấy nhớ khá nhiều đến mấy cái tình tiết khiến tôi phá lên cười trong truyện Những bài học nông thôn, như:
- Đoạn Hiếu ăn
cơm ở nhà Lâm. Đàn ông ăn mâm riêng, gồm bố con Hiếu và Hiếu. Mâm còn lại dành
cho bà Lâm, mẹ Lâm, chị Hiên, cái Khanh với thằng Tiến. Khi chị Hiên mời mâm
trên, rằng: “Các cụ xơi tự nhiên” thì thằng Tiến (4 tuổi) đòi: “Cho em làm các
các cụ với!”. Mẹ nó mới nạt, bảo chim nó bằng quả ớt thì làm các cụ ra sao. Thế
là bà nội, bà cụ 80 tuổi thở dài bảo: “Chim các cụ toàn chim to”.
- Ở đoạn Hiếu
nhận được thư bố gửi. Trong thư ông bố vừa ngọt ngào bảo “Con thân yêu, Bố rất
bực mình vì bố đi vắng thì mẹ tự tiện thả con về nông thôn”, thì liền đó đã
phang ngay cho ông con trai câu chửi “Tao xin báo cho mày biết, đồ chó, rằng nhà
mày ở thành phố, tương lai của mày ở đấy…”
- Đoạn chị Hiên
kể lần đi xem vở Tần Hương Liên xử án, có “một tay cứ gí chim vào đít cái Lược.
Cái Lược bảo: “Làm gì thế?” Tay này cũng dơ, nói thản nhiên: “Làm chủ nhiệm hợp
tác.” Cái Lược mắng: “Thôi đi chứ.” Tay này lại bảo: “Nhân dân tín nhiệm thì
tôi còn làm.”
Là người đọc có khuynh hướng đọc những cuốn
sách nghiêm cẩn, nhiều khi nặng trĩu, tôi không thường đọc những tác phẩm có thể
khiến độc giả cười, dù là cái cười mang tính châm biếm hay hàm chứa sự sâu cay
hay là cười một cách thoải mái, vui vẻ. Có lẽ vì vậy tôi cũng dễ nhớ cách một
cuốn sách có thể khiến tôi cười, dù là một tình huống thoáng qua hay là những
tình tiết có tính dung tục song thú vị và ở mức chấp nhận được, theo cách giễu
nhại mà người ta không thể không nghĩ đằng sau nó có hàm chứa ý nghĩa nào đó. Tôi cho rằng làm người khác cười được như thế thì không dễ tí nào. Là tôi
thì tuyệt không bao giờ làm được.
Nhận xét này đã bị tác giả xóa.
Trả lờiXóa