Về một số ebook
mà hơn nửa năm nay tôi đã đọc. Đều là những tác phẩm có độ dài vừa phải hoặc ngắn.
Tôi nói gì khi nói về chạy bộ

Chạy bộ và viết
văn dường như không liên quan đến nhau. Chắc chắn có những nhà văn không chỉ
làm mỗi một việc trong đời là viết văn. Và cũng chắc chắn có những nhà văn yêu
chuộng thể thao cũng như có những nhà văn không coi trọng việc rèn luyện thể chất.
Vì vậy chạy bộ và viết văn, nếu liên quan đến nhau, thuộc về phạm trù kinh nghiệm
riêng tư. Với Haruki, như ta thấy, viết văn là câu chuyện của tài năng và sự tập
trung mang sức mạnh của sự kiên trì. Và chạy bộ rèn cho ông cái khía cạnh thứ
hai ấy.
Chân dung nhà văn
của Haruki Murakami không gắn liền với những biến cố đau buồn hay phút thăng
hoa xuất thần nào đó. Nghĩa là tính định mệnh hay thời khắc của cảm hứng hay một
lối sống khác biệt với người bình thường không hoặc ít tồn tại trong cách ông
đang viết về mình. Là nhà văn, ông viết đều đặn theo cách thức chăm chỉ và tập
trung. Như khi ông chạy bộ. Với Haruki Murakami, có lẽ viết văn cũng giống như một
nghề mà chúng ta bỏ ra ngày lao động 8 tiếng ở công sở. Tôi liên tưởng đến
Orhan Pamuk trong một cuốn sách gần đây mình đọc. Họ có cùng một cách thức kỷ
luật như thế với chính mình. Điều này có thể khiến cho viết văn hay đời sống của
nhà văn ít hấp dẫn đối với những độc giả tò mò. Tuy nhiên, cùng với việc không nói
nhiều về văn học, sự chịu ảnh hưởng thời đại hay của những tác giả, tác phẩm
hay bản thân mình trong tư cách người đọc, Tôi
nói gì khi nói về chạy bộ của Haruki
Murakami giúp nhận diện một chân dung
nhà văn gần gụi hơn với mỗi chúng ta: họ ở đây, ngay giữa cuộc sống thường nhật
và có thể có cuộc sống lành mạnh bằng vào việc duy trì sức khỏe thể chất và
tinh thần như chạy bộ suốt 25 năm và viết đều đặn theo tôn chỉ “dừng lại mỗi ngày khi cảm giác bản thân còn
có thể viết được nữa” chẳng hạn…
Và môn chạy bộ, theo
cách nào đó, đã gợi lên hình ảnh nhà văn cùng những nhân vật trong tác phẩm của
ông. Trên những chặng đường marathon, người chạy bộ đơn độc, kiên trì và không mỏi mệt dù cái đích có xa xôi đến đâu…
Chú bé mang pyjama sọc
Tôi không biết
làm sao để nói về tác phẩm này mà cho thấy hết sự trong sáng và khốc liệt của
nó.
Thoạt tiên, Chú bé mang pyjama sọc giống như một tác phẩm dành cho thiếu nhi nhưng càng về cuối, tôi
càng hiểu rằng nó không đơn giản như thế. Và khi những dòng chữ cuối cùng qua
đi, tôi tự hỏi liệu có nên liệt tác phẩm này vào những tác phẩm dành cho trẻ em ?
Làm sao để một đứa trẻ đọc tác phẩm này, hiểu được tầng sâu ý nghĩa của nó mà
không đau lòng ? Và nếu nó không hiểu, liệu chúng ta có nên giải thích trọn
vẹn cho nó hiểu không ?
Tác phẩm không dùng
từ ngữ nào để miêu tả chiến tranh, không nói về máu và nước mắt. Ừ thì đúng thế.
Nhưng người đọc biết chiến tranh có ở đó và sự thật tàn bạo là đằng sau câu
chuyện trong sáng về tình bạn và những tháng ngày tuổi thơ của cậu bé Bruno
chính là nạn diệt chủng người Do Thái dưới thời Đức quốc xã. Những hàng rào mọc
lên, như lằn ranh phân định giữa kẻ được sống và những kẻ phải bị chết dưới
sự định đoạt của những kẻ tự cho mình cái quyền ban cái chết ấy. Nhưng Bruno không biết điều
đó. Nói đúng hơn trong tâm hồn và trái tim thuần khiết của một đứa trẻ 9 tuổi không
thể tồn tại bất cứ sự phân định nào giữa con người. Trong trái tim chúng chỉ có
tình bạn, tình yêu thương vô điều kiện mà những hàng rào kẽm gai – được dựng
lên bởi những mưu đồ toan tính của người lớn – cũng không thể nào ngăn cản. Cũng chính sự ngây thơ non nớt ấy của
Bruno cho đến tận những giây cuối cùng đã để lại một dư âm đau đớn trong lòng độc giả và làm cho hình ảnh chiến tranh trở nên tàn nhẫn hơn mọi lời cáo buộc.
Tôi không dám đưa ý nghĩ của mình đi xa hơn hình ảnh hai cậu bé nắm chặt tay
nhau trong căn phòng tối om và chật ních người, mà tiếng kim loại từ bên ngoài
cho thấy đã được khóa kín (Bruno không biết đó là nơi nào nhưng chúng ta thì biết, không phải không trong sự bàng hoàng). John
Boyne tuyệt nhiên không viết tiếp lời nào về những giây cuối cùng ấy của Bruno. Nhưng chỉ bấy
nhiêu là đủ để người đọc rúng động. Như người cha
trong câu chuyện, ngài chỉ huy của quân đội Đức quốc xã, khi xâu chuỗi và mường tượng hành động
của đứa con trai, ông kịp hiểu ra tất cả. Trong khoảnh khắc ấy, ngài chỉ huy
không còn đứng vững nổi nữa. Ông ngồi bệt xuống. Và rồi hạnh phúc khi tin rằng
cái giây phút báo ứng sẽ đến với mình khi bị áp giải đi ít lâu sau đó… Có điều
gì khác biệt giữa một người Đức và người Do Thái khi nếm trải nổi đau mất người
thân…
Một câu chuyện được kể lại một cách giản dị, nhẹ nhàng nhưng lại ẩn
chứa một bi kịch nghẹn ngào thế này, liệu có nên đọc cho bọn trẻ nghe?
ghé thăm VP .nhớ căn nhà mầu tim laveder của VP quá
Trả lờiXóathế là sau này để được ai nhớ đến chốn này thì lại phải bỏ đi nhỉ : ))
XóaThì thế .Cuộc sống vốn vậy. mà còn để từ "nhớ" và "nuối tiếc " có chỗ dùng chứ :P
XóaTốt nhất là không phải dùng. Vì đó là khi ta làm được cái gọi là "trân trọng hiện tại" : D
Xóa